Les étoiles
Mình biết về Daudet trước cả khi được học về cái buổi học cuối cùng ở vùng Alsace. Cái ý niệm địa lý đến đầu tiên lại là xứ Provence, cách xa khúc giữa dòng Rhin gần nghìn cây số về phía Nam, trong truyện ngắn Les étoiles, qua lời kể của ông nội. Vẫn là cái giọng văn trong Lettres de mon moulin đã làm sống lại những vẻ đẹp của thói quen thủ công còn chật vật sót dư ở miền quê nước Pháp giữa buổi cách mạng công nghiệp, Daudet thật biết khuấy động đoạn ký ức vốn trốn tăm đâu mất suốt từng ấy năm.

Ròng rã hơn chín năm trời bán trú thường xuyên trên Kim Liên, cộng thêm mấy năm ghé chơi lác đác sau đó, kỷ niệm sót lại trong tâm trí mình về căn tập thể của ông bà vốn dĩ chỉ dừng lại ở buổi ngày, khi trời còn sáng, bởi lẽ hiếm lắm mới được ở lại qua đêm, hiếm đến độ giờ có nhớ ra được dịp nào kề cận ông bà trọn vẹn một ngày thì cũng quên bặt đi nguồn cơn cho cơ may đó là gì. Nhưng dĩ nhiên có một hôm mình được ở lại, và hôm đó, vì một lý do nào đặc biệt, bà mình, người vốn bị tuổi già làm nghịch đảo đồng hồ sinh học lại ngủ ngon lạ thường, vậy nên chỉ có riêng hai ông cháu thức. Đêm ấy, ông dựng mình dậy để ngóng mấy chậu hoa quỳnh ông trồng nở. Ngoài hiên chuồng cọp cơi nới ấy là đủ bao chậu hoa: quỳnh, sứ, giấy, hồng, lan ý, sử quân tử. Riêng quỳnh, bỏ một giấc ngủ để ngắm nghía đã là một thói quen, hay đúng hơn là một thứ nghi thức mà ông phải cử hành mỗi khi hạ chí. Trước khắc bông hoa kia trổ bông, ông bất giác kể mình nghe một câu chuyện, một bản lược dịch Les étoiles từ chính ông.

Đêm hè ấy, cũng vào một đêm hè tháng bảy, ông chỉ cho mình chòm Thiên Yến mà dù có cố nhìn đến mấy, đứa bé mà một hai năm nữa thôi sẽ sớm cận thị cũng chẳng thể nhìn ra bóng dáng con chim nào. Kể cả có sáng rõ, đưa mắt dọc theo đường ngón tay ông chỉ, mình cũng đành chịu hình dung, bởi ba ngôi sao mà ông nói kia nối lại với nhau đúng thành một góc tam giác tù, nhìn giống giờ giảng toán hình trên lớp hơn là một con chim trời. Và rồi, giống cậu bé mục đồng trong câu chuyện rẽ ngang bầu trời để nàng thơ của mình thấy con đường thập tự của thánh Jacques, ông bắt đầu giải thích. Ông kể, người Pháp gọi chòm sao đó là oiseau de paradis - con chim của thiên đàng. Hai nhà hàng hải người Nê-đéc-lan đã khám phá ra chúng giữa Thái Bình Dương, trên đường tới Đông Ấn. Hình thù của nó tựa hình thù Nam Đảo, rương báu của người Hà Lan lúc bấy giờ với cái đầu hướng về phía Tây là Sumatra, nhìn đau đáu lục địa già; góc tù là thành Batavia cùng tấm thân, đôi cánh - quần đảo Sunda; còn cái đuôi hướng về phía Đông là Timor và Papouasie. Vậy đó, con chim của thiên đường nằm gọn ghẽ ở một nửa bán cầu, nhưng thiếu cặp chân. Trong mắt người Châu Âu, đôi cẳng chả phải thứ đẹp đẽ gì, loài chim đáng giá nhất ở bộ lông cùng hai cánh, hà cớ phải cần phải thêm chân vào. Ông đùa rằng, chỉ có dân An Nam chúng ta mới khoái chân, nhất là chân của loài gia cầm: chân gà, chân vịt, chân ngan. Tuy nhiên, đôi chân lại chính là vũ khí sắc lẹm nhất của phương Đông. Họ mong ta cư xử như những con chim quý, nằm trong lồng bách thảo, ngoan ngoãn như toàn bộ từng xứ thuộc địa đang nằm ngủ, và thiên đàng của thực dân là hàng người bản xứ ngoan đạo biết vâng lời mẫu quốc. Chính cặp chân, thứ loài chim được ban cho để săn mồi, để quặp ngang thân kẻ địch, sẽ là thứ sẽ giải phóng ta, ngay khắc họ mở lồng. Một cậu bé 7 tuổi lúc đó nghe xong không lấy làm tưởng tỏ thêm kiến thức thiên văn cho mấy qua lời kể đậm chất manifeste và chỉ tờ mờ hiểu được rằng sao người ta có thể suy cái góc tù kia thành hình con chim.
Nhưng, toàn bộ quá trình kể chuyện cho tới hồi ngắm hoa quỳnh nở kia, lại không giống con người ông một chút nào. Ông mình, giống bao người sinh ra ở ngoại thành buổi giao thời, lớn lên với việc lấy nông làm gốc. Bố của ông, một người cày thuê cần cù, phất lên nhờ những đồng bạc chu cấp hào phóng từ chính phủ thuộc địa vì cụ tự nguyện đi lính cho Pháp trong Thế chiến thứ nhất, và nhờ lấy được cô con gái của một điền chủ trung nông cùng làng. Mẹ của ông, phải gánh vác kế nghiệp trồng trọt của gia đình sau khi từng người em trai chọn lập thân ở trên khu phố mới Bạch Mai - một lớp thanh niên chọn trở thành tư sản, trí thức để đoạn tuyệt hẳn với kiếp ruộng đồng. Nếu gặp được ông sinh thời, người lạ sẽ thấy đây là một cụ già luôn trưng vẻ của một người bolchévique cần kiệm, một cán bộ tiền khởi nghĩa thực hành nghiêm chỉnh triết lý quân bình giai cấp mà Marx dạy, thi thoảng cố để cho người ta biết mình nói được tiếng Pháp, một sự tiết lộ ra vẻ có chủ ý để họ hiểu vốn từ của ông chỉ vừa đủ để hát được La Marseillaise, hiểu được đôi ba dòng thơ La Fontaine như ngầm nói rằng ông là một đảng viên đã được dạy bảo tử tế ở trường Pháp khi còn bé chứ không phải một cá thể có xuất thân tiểu tư. Nhưng tại sao một người biết nhiều đến thế, ẩn dụ được nhiều điều đến thế lại phải làm bộ như vậy. Mình chưa bao giờ mảy may nghĩ đến câu hỏi ấy, bất chấp ngần đó năm quan sát người ông của mình. Cho đến ngày nọ. Gần nửa năm sau khi ông mất, khi căn tập thể cũ cuối cùng cũng bị thế hệ thứ hai của gia đình giao bán sau nửa thế kỷ phụng sự, trong lúc dọn kệ sách trong phòng ông, kệ sách mà hồi mình còn tích cực rong chơi ngày hè thuở bé luôn bị sự ngồn ngộn của nó làm cho tò mò. Lúc ấy, một đứa trẻ chỉ hay nhìn thấy thứ hiện diện trước mắt, đã bị chồng báo miễn phí - tiêu chuẩn tối thiểu một lão thành cách mạng nhận được - cùng chồng sách y khoa của người già che lấp đi một bí mật. Camus, Gide, Balzac, Roland, Proust, Mauriac, Aragon,... cùng nhiều cái tên cứ thế nối đuôi nhau xuất hiện phía sau khi mình dọn dẹp. Ngay lúc đang viết đoạn văn này, mình mới nhận ra rằng đúng là so với những cuốn khoa học giả tưởng Cầu Vồng hoặc tác gia Xô Viết, Jules Verne và Hậu Hiện đại Pháp chiếm ưu thế trên giá sách nhựa của ông. Đến thơ Nga ông có cũng là bản chép tay, gõ máy của Akhmatova, Blok, Mandelstam cho tới những émigré như Ivanov, Bunin, Tsvetaeva. Mỗi cuốn sách, bản thảo đều lưu lại bút tích của ông: mua ở đâu, lúc nào, bắt đầu đọc khi nao, đọc xong vào ngày mấy, cảm nhận ra sao,..
Toàn bộ những điều đó, thêm cả khung cảnh đêm sao và Daudet đã khiến lũ lượt dòng ký ức hiện về, cách ông thi thoảng ngân nga Le temps des cerises mỗi chiều mưa như một chiến sĩ công xã, cách ông ngâm Apollinaire, thói quen đề ngày tháng bằng tiếng Pháp khi viết thư cho người em họ định cư bên Québec. Tất cả đều kín kẽ, thanh thoát, khuất khỏi tầm mắt mọi người xung quanh đã buộc mình phải trăn trở mà xét lại, đằng sau con người cố đang bình dân hết mức ấy là ai?
Những năm đầu đời của ông nội được phủ bóng rất nhiều từ người mẹ. Cụ bà, người lanh lợi và không mấy kiệm lời như cụ ông, như mọi bà mẹ khác, đầu tư hết sức cho cậu con trưởng. So với các đứa trẻ sinh ra ở Hoàng Mai cùng thời, ông được thừa hưởng nền giáo dục tương đối đầy đủ và tân tiến, dẫu hồi bé không phải một cậu học trò siêng năng. Sau khi thi trượt trường Bảo Hộ, ông vẫn được người cậu giáo, một trong những em trai của mẹ chọn lựa an cư trên con phố mới Bạch Mai đưa về trường tư thục Thăng Long để học. Ông được mẹ cấp cho một con xe đạp Peugeot để đi lại từ Trung Hiền lên Ngõ Trạm, được cấp ngân sách đủ để ông dư dả cầm chúng sang bên kia phố Demange (Phùng Hưng) đánh bài tây với đám học sinh máu mặt và hội gia nhân người Hoa. Rồi khi nhận diplôme tốt nghiệp và từ bỏ ghi danh đại học, ông lại được một người họ hàng khác lo chạy một chân làm ký lục cho sở bưu điện thành phố. Dù trong lời ông tâm sự có chút nửa đùa, nửa thật, thì ý định của cụ bà: đưa cậu con trai lớn của mình tránh xa khỏi nghề cấy và gặt đã thành công chút đỉnh. Ít nhất với cương vị một viên chức thuộc địa bậc thấp, kiến thức ông học được đã không dừng lại ở hai từ “moi” - “toi”. Sự va chạm với giới tinh hoa bản xứ lẫn thực dân thời ấy đã tạo đà cho ông tự phá băng lối suy nghĩ trọng nông đã kìm kẹp nhiều vị trưởng nam khác trong gia đình mà tìm cho bản thân một bản ngã mới, ngay khi quê hương xứ sở chuyển mình. Trong nhiều cơ may xuất hiện, ông thừa nhận rằng cơ may lớn nhất là ông đã không chọn bàng quan trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Ông cũng đi mít tinh, tuần hành; cũng trốn học để cùng đám học sinh Bảo Hộ cãi lộn với đám học sinh Albert Sarraut; cũng biết mò ra tòa án đỏ đứng xem người Pháp xử án những nhà ái quốc; biết đọc các tờ báo như Le Travail, Tin tức, La Peuple, Notre voix. Và có lẽ bước ngoặt thôi thúc ông đến với cách mạng là khi cùng đoàn học sinh Thăng Long tiễn đưa dân biểu Phan Thanh vào mùa hè năm 1939, một dấu mốc mà ông xem coi như kết thúc thời đại bình dân ở Đông Dương. Bài diễn văn của cụ Phan Thanh một năm trước đó khi Hội Truyền bá Quốc ngữ ra mắt quốc dân tại phố Charles Coulier (Khúc Hạo) chính là lời hiệu triệu để cậu học sinh trẻ tuổi khải hoàn câu “vive la révolution”. Những nền tảng ông có được từ thời Mặt trận Dân chủ, cộng thêm một xuất thân chơi vơi và vừa đủ có lẽ góp phần định hình con người ông như thị dân trung lưu, dẫu chưa vượt được cái ngưỡng tú tài nhưng cũng tường tỏ kha khá về thời cuộc.
Rồi ông gặp người vợ tương lai của mình. Bà nội là em gái một người một người bạn khóa dưới của ông ở trường Thăng Long. Nhà bà xuất thân quan lại ở Phú Thọ, và như nhiều dòng họ khoa bảng khác sau khi người Pháp tới, gia đình bà sinh ra bản tính thức thời, chút ít thực dụng. Cụ ông thân sinh của bà là lớp người đầu tiên từ bỏ Nho học, trở thành giáo viên ở trường Cao đẳng Tiểu học, là thành viên Hội Khai trí và có một căn villa nhỏ đầu phố Quan Thánh. Với gia đình bà nội, trước 1945, ông mình, một người hay lấy cớ tới nhà bạn chơi để gặp bà có lẽ không khá khẩm hơn một cậu trai lông bông với ước vọng làm cách mạng phù phiếm như hội trai trẻ phái Jacobin đầy hưng phấn Lãng mạn chủ nghĩa trước ngày dân Paris phá ngục Bastille. Thế rồi khi gió đảo chiều và ngọn hồng kỳ phấp phới, ông trở thành một chàng rể đáng cân nhắc. Con người ông bây giờ hội tụ những phức cảm đầy mâu thuẫn. Ông; về phía đằng nội, đủ ít ỏi đất đai để thuộc về giai cấp công-nông; còn về đằng ngoại, đủ học vấn để bảo chứng cho một tương lai thăng tiến trong xã hội mới. Vốn lớn lên với sự xung đột tâm thức của một người ven đô: chẳng thuộc về làng quê, cũng chẳng thuộc về thành thị. Ông giờ phải nhận thêm một thứ xung đột khác: vừa phải trở thành một chàng rể có học cho xứng, vừa là một đảng viên xuất thân từ thành phần gia đình cơ bản. Cái vế đảng viên coi như đã thành khi ông được kết nạp năm 1944, nhưng ông chưa bao giờ coi mình thuộc về giới hay phải mài chữ trên ghế bành. Khi mặc cảm và áp lực đè nén, ông đã chọn cặm cụi, theo cách riêng, cố gắng tiếp thu văn hóa và kiến thức hết sức để trở thành một người có học trong mắt bà. Mình vẫn nhớ ông hay đùa rằng thi thoảng bà vẫn tiếc khi đã lấy ông, dù hồi trẻ có biết bao trí thức và chí sĩ cách mạng “đừng hàng dài” nối đuôi nhau từ bốt sở cẩm vòng qua vườn hoa Hàng Đậu. Suốt một khoảng thời gian dài, mình tin tình yêu là động lực duy nhất cho sự mực thước mà ông buộc bản thân phải gò ép vào. Nhưng ngộ nhận ấy hóa ra chỉ đúng một phần.

Khi màn kịch cuộc đời người sau nhiều hồi leo dốc lên và xuống như cao điểm đồ thị tự sự của Aristote gần hạ màn, trong lời sám hối muộn màng, ông đã thú nhận: toàn bộ nỗ lực đeo đuổi tri thức mà ông âm thầm thực hiện, là một lời đáp với quá khứ. Mình chưa bao giờ quên biểu cảm của ông khi mình báo tin đã thi đỗ đại học, một việc bình thường với bao đứa trẻ thế kỷ XXI, lại khiến ông vui tột cùng, vẫn như khi những đứa cháu khác của ông làm điều tương tự. Lúc ấy mình chỉ nghĩ đơn giản, với việc hai người đàn ông xếp trên mình là bố và ông đều chọn kết thúc con đường giao du với tri thức ở tuổi 18, tin tức này hẳn là một áp-phe. Phải rất lâu, trong một cuộc hội thoại về sau, khi mình phải xoay xở trong cái thế vô tình phải trở thành một cha xứ nghe con chiên xưng tội, mình mới hiểu: ông có một người em trai, người em ấy đã trúng tuyển trường Bưởi, nhưng vì giấy báo đến muộn, theo lệ làng, người em buộc phải ở lại cùng khác thanh niên khác đảm nhận cai giữ đất tổ tiên, trong giai đoạn phép vua vẫn chào thua lệ làng. Mùa đông năm 1946, Hoàng Mai vỡ mặt trận, giống những người thất học khác đi theo cách mạng, họ phải trở thành du kích tử thủ, như thể cuộc đời họ phải thắt một nút buộc chặt với mảnh đất chôn nhau, chỉ để hy sinh. Dù không thừa nhận trực tiếp, mình hiểu với tư cách là người được chăm lo để có được sự học, ông nội đã chọn phung phí nó, và lựa chọn ấy ám ảnh ông cả một đời. Ông từng vu vơ nói rằng nếu người em trai của mình được đi học đàng hoàng, một chức vụ chính trị nào đó sẽ đợi chờ, như ông. Rằng người em ấy sẽ được bổ nhiệm làm làm bí thư, phó bí thư một chi bộ đảng nào đó ở Hà Nội, chứ không phải một chiến sĩ du kích cầm súng. Thật tình mà nói, và mình tin ông cũng biết là dù cái giấy báo từ Kẻ Bưởi có về Kẻ Mơ sớm hơn hay kịp vừa lúc, thì gia đình dẫu không túng thiếu, cũng không còn sức lực để chăm lo thêm cho một cậu trai đi học. Bản thân cụ bà có lẽ cũng đã nghĩ, từ cương vị người phải, hoặc bị ở lại với đồng quê, chấp nhận để một người con ra đi đã là quá đủ. Cũng vì lẽ đó, mà mình tin ông mình, suốt năm tháng cụ còn sống, đã để cuộc đời mình gắn chặt với nội đô và chỉ về làng trong dịp thật sự quan trọng.
Nhưng điều nhẹ nhõm nhất, sau tất cả, là tất cả nỗi niềm kia đã trở thành một thứ động lực, một động cơ locomotive bình yên để toa tàu của cuộc đời ông tiến thẳng về trước; chứ không phải một sự ám ảnh vĩnh viễn, một vở diễn ông buộc phải nặng nhọc neo theo. Người ta thường để nỗi đau quá khứ che lấp đi con người thật của mình, nhưng với ông, tri thức và sự suy nghĩ tử tế không chỉ là một lời đáp cho quá khứ của người, mà cho chính bản thân.
Những người nhập nhằng giữa hai thái cực như cô chú, anh em, con cháu của ông; ngay cả đến Tô Hoài, một người ven đô trạc tuổi ông, cũng thể hiện yêu dấu miền quê Hoài Đức hết mực; đều chọn tịnh tiến cuộc đời mình về phía trung tâm của thành phố, thì ông, khi cuộc đời gần hạ màn, giống như cậu bé cô đơn trên dãy núi Luberon, lại ước ao một ngôi nhà cùng bầy gia súc ở vùng thượng ngàn Sơn La, nơi ông gắn bó tuổi trẻ nhiệt huyết nhất của đời người. Sống một thế kỷ để lo nghĩ cho việc công, trong những giây phút cuối cùng, ông quay trở lại thành một đứa trẻ sinh ra từ ngôi làng trồng mơ nấu rượu và làm đậu phụ. Thật không khó để nói ao ước đó đậm đà sắc điền viên, nhưng với cách suy tưởng ông đã chọn tiêu thụ cho tâm trí của mình, “bình dị” không còn là từ phù hợp, mà phải là “lãng mạn”, lãng mạn như Le voyageur contemplant une mer de nuages của Friedrich, lãng mạn hơn bất cứ con người nào khác ở Hà Nội.
Khu Kim Liên mùa hè năm nào đó từ rất lâu rồi, có một đoàn cựu chiến binh đi vào thăm chiến trường xưa rồi bị lật xe khi đổ đèo ở Tây Nguyên. Cứ mỗi ngày 30/4 dương, khi cả khu tập thể ăn mừng ngày thống nhất, thì ở dưới sân chung, có vài con người trẻ ngồi lặng lẽ hóa vàng cho người thân. Mình từng hỏi bố mình rằng tại sao cuộc đời để họ sống sót qua những ngày tháng kinh hãi nhất của một con người, ấy mà lại tước họ đi vào buổi thanh bình như thế. Vậy mà chẳng ngờ, sự thể đó lại quay lại với khu Kim Liên thêm một lần nữa. Ông mình mất vội vã vào đúng ngày cuối năm 2021. Người ta cuốn chặt ông đưa thẳng lên thùng xe van từ khu dã chiến của Đại học Y dưới Tam Trinh về hỏa táng ở Văn Điển. Chúng mình không thể nhìn ông lần cuối và bố mẹ mình chỉ nhận được di vật sau cùng là một bình tro tàn. Mình lại tự hỏi, sao một con người từng sống sót qua chuỗi ngày cháy bỏng ở Việt Bắc, từng vượt qua thảm bom ở Thượng Lào, từng chiến thắng cơn đột quỵ, cơn suy tim ở Việt Xô, vậy mà giờ khắc ra đi lại nhanh, vội quá. Khi bắt đầu viết bài này, mình chỉ nghĩ tới mối cơ duyên lạ kỳ giữa ông với Daudet, với bầu trời sao Hà Nội; vậy mà giờ đây dòng chữ này sẽ như một điếu văn, một bản di ca ông bỏ lỡ, và xứng đáng có được. Ông từng ấp ủ có một cuốn hồi ký, và toàn bộ nền tảng của bài viết này được dựng nên từ những đoạn hội thoại ngắn ngủi cuối cùng giữa hai ông cháu mà ông đã dũng cảm gửi gắm để sau này có người viết chút ít gì đó về một thân phận bình thường, nhưng cũng phi thường. Ông từng kể trong những ngày giải truyền đơn với anh chị em trong Đoàn Thanh niên Phản đế, rồi những ngày sau Cách mạng Tháng Tám trong tự vệ thủ đô trước khi được thuyên chuyển sang công tác chính trị, ông vẫn đầy ngưỡng mộ ngắm nhìn những văn nghệ sĩ, những trí thức cánh tả trẻ tuổi khi ấy bàn luận với nhau đủ mọi chuyện trên khu phố cổ, như hiện hữu một salon littéraire của riêng họ. Họ bàn về những vở kịch, những tiểu thuyết, những bài thơ, những khúc hát về một tương lai mà họ là nhân vật chính, hẳn ông đã nhen nhóm một trước tác về bản thân từ dạo ấy.
Tháng bảy đã tới, tối nay trời Hà Nội không có sao, dạo gần đây cũng hy hữu và ở thì tương lai sẽ rất lâu nữa mới sáng trở lại. Nhưng đôi lúc sẽ chỉ cần một buổi trời quang, vào đêm hè, khi ba ngôi tinh cầu được người phương Tây lần lượt đánh dấu alpha, beta, delta lần nữa xếp thành một góc tù, ở đâu đó bên dưới kia, sẽ có vài khóm hoa quỳnh nở trong đêm, và, như lẽ tự nhiên, đời một con người sẽ lại được soi tỏ.
Postface
Puisque je suis là seul devant l’immensité, Et puisqu’ayant sur moi le profond ciel d’été Où le vent souffle avec la douceur d’une lyre, J’entends dans le jardin les petits enfants rire. Vì tôi ở đây giữa sự bao la Và vì tôi ở đây với trời hè cạnh bên Nơi cây đàn lia gảy một khúc gió ngọt ngào Tôi nghe thấy tiếng cười con cháu trong khu vườn êm. -Printemps, L’Art d’être grand-père, Vitor Hugo-
Hanoi, le vendredi 4 juillet 2025






